[PHẢ KÝ] - Tộc Nguyễn Văn Thôn Giao Thủy Xã Đại Hòa Huyện Đại Lộc Tỉnh Quảng Nam

NHÀ THỜ TỘC NGUYỄN VĂN GIAO THỦY

TỪ ĐƯỜNG TỘC NGUYỄN VĂN Ở PHÍA NAM

 

NGUỒN GỐC TỘC NGUYỄN VĂN 
Ở GIAO THỦY

(Đại Hòa - Đại Lộc - Quảng Nam)

 

I. DÒNG HỌ NGUYỄN Ở VIỆT NAM:

Ở nước ta, có hàng trăm họ khác nhau nên việc tìm hiểu nguồn gốc các họ không hề là việc dễ dàng. Qua các tư liệu cổ còn lưu lại, cho đến nay, ta có thể khẳng định rằng họ Nguyễn là một trong số ít các dòng họ đã sớm có ý thức về việc biên soạn gia phả, và nay còn lưu lại những tư liệu tương đối cổ và quý. Chẳng hạn, đầu thế kỷ XIII, Nguyễn Nộn đã viết một cuốn gia phả của dòng họ (mà ông tổ là Nguyễn Bặc) bằng chữ Hán. Giữa thế kỷ XIII, Nguyễn Thuyên (người chế tác ra chữ Nôm, được vua nhà Trần khen thưởng rất hậu, và cho đổi ra họ Hàn – Hàn Thuyên – nhằm tôn xưng ông ngang hàng với bậc văn tài lỗi lạc của Trung Hoa là Hàn Dũ) lại viết một cuốn gia phả của dòng họ bằng chữ Nôm. Sau đó, rất nhiều chi, phái hậu duệ của họ Nguyễn đã viết gia phả của chi, phái mình, và đương nhiên có ghi chép từ Khởi tổ trở xuống. Đáng chú ý là cuốn Nguyễn gia thế phổ đồ ký, do Thượng thư Bộ Hình Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ biên soạn năm 1515. Đây là cuốn gia phả cổ nhất còn giữ được. Dưới thời Pháp thuộc , nhiều chi họ đã biên soạn gia phả bằng chữ Quốc ngữ. Các cuốn gia phả này rất quý vì nó giúp cho con cháu hiểu được lịch sử của dòng họ và truyền thống tốt đẹp mà biết bao đời tổ đã vun đắp nên. Đặc biệt, cuốn Dự thảo gia phả họ Nguyễn (Nguyễn tộc thế phả), Quyển Thượng, (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV) do Ban Liên lạc dòng họ Nguyễn ở Việt Nam chủ trương biên soạn, và do Nguyễn Văn Thành chủ biên, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc viết phả của dòng họ.

Những năm gần đây, với sự tài trợ của Quỹ UNESCO (LHQ), CLB UNESCO- VN đã tiến hành biên soạn nhiều cuốn sách nghiên cứu về gia phả các dòng họ ở Việt Nam; trong đó, đáng chú ý có các cuốn Việt Nam và cỗi nguồn trăm họ; Cội nguồn (T.1, T.2) và Nghiên cứu phần thượng phả dòng họ Nguyễn v.v…

Điều quan trọng là tất cả các cuốn nghiên cứu kể trên đều xác định Nguyễn Bặc là khởi tổ của dòng họ Nguyễn ở Việt Nam.

Sở dĩ gọi ông là khởi tổ vì ông là vị tổ đã mở đầu cho một dòng họ lớn đã tồn tại hàng nghìn năm, gồm rất nhiều hệ, chi nhánh hậu duệ trên toàn quốc, với rất nhiều vị thủy tổ hậu duệ khác nhau. Chính vì thế, người ta còn gọi ông là Thái thủy tổ.

Sách “Nghiên cứu phần thượng phả dòng họ Nguyễn” (CLB UNESCO VN, Nxb Văn hóa Thông tin, HN, 1996) giải thích như sau: “Hồi thực dân Pháp còn thống trị nước ta, một số nhà sử học người Pháp đã có lập luận cho rằng, người Việt không phải gốc bản địa, mà thời cổ đã có sự di dân từ phương Bắc xuống, giống như những cuộc di dân ở châu Âu, châu Phi. Một mặt khác, cha ông ta ngày xưa khi viết phả, viết sử, để tránh bị gọi mình là “Nam Man”, nên đã ghi nguồn gốc của ta là từ phương Bắc xuống. Đế Minh, hậu duệ của Thần Nông, truyền ngôi cho con cả là Hùng Ly làm vua ở phương Bắc, và con thứ là Lộc Tục làm vua ở phương Nam. Lộc Tục truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân. Chính vì thế, có phả họ Trần ở ta ghi nguồn gốc của họ này là từ nước Trần ở Trung Quốc ngày xưa, mặc dù phả không hề ghi rõ mối quan hệ đó như thế nào. Hay như một số hệ, chi họ Nguyễn ở nước ta có ghi trong phả là nguồn gốc ở “Trần Lưu quận”, dù thực ra chẳng biết Trần Lưu quận nằm ở địa phương nào tại Trung Quốc(1).

Cuốn Lịch sử Việt Nam, Tập I, tức cuốn lịch sử chính thức của nước ta ngày nay, không viết tổ tiên ta từ phương Bắc xuống như trước kia nữa. Chương đầu của cuốn sử này viết về “Nước Văn Lang”, có nêu điểm quan trọng nhất là: “Ruộng lạc theo nước triều lên xuống mà làm, dân khẩn ruộng ấy mà ăn, nên gọi là dân Lạc”(2). Điểm này nói rõ dân ta sớm biết trồng lúa nước ở Đông Nam Á, quê hương của lúa nước. “Lạc Việt” là dân Việt trồng lúa.

Vì vậy, trong nhiều phả họ Nguyễn có ghi: “Họ Nguyễn vốn dòng Lạc tướng ở đất Phong Châu”. Phong Châu ngày xưa gồm cả vùng Sơn Tây và nam Phú Thọ với trung tâm là Đền Hùng. Điểm đó chứng tỏ họ Nguyễn đã có từ thời Hùng Vương khi các dòng họ bắt đầu hình thành với nhà nước Văn Lang.

“Phả do Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ ghi Nguyễn Bặc quê ở huyện Hoằng Hóa (Ái Châu). Ghi như vậy cũng không đúng. Nguyễn Bặc cùng quê với Đinh Bộ Lĩnh, ở Sách Bồng (Vân Bồng) nay là thôn Đại Hữu, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ở nơi đây còn có “Khởi nguyên đường” (nhà thờ nguồn gốc) thờ ông, có mộ ông ở gò Cá Chép, có khu mộ phát tích họ Nguyễn cạnh chân núi Hổ, tức là khu mộ của tổ tiên ông. Thuở nhỏ, ông cùng tập trận cờ lau với Đinh Bộ Lĩnh, cùng kết nghĩa anh em với Đinh Bộ Lĩnh. Những điểm này chứng tỏ ông là người gốc lâu đời ở địa phương nầy. Phụ thân ông là Nguyễn Thước, bạn thân thiết với Đinh Công Trứ, phụ thân của Đinh Bộ Lĩnh. Hai vị đều làm quan dưới thời Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền.

Cho nên, dòng họ Nguyễn Bặc đúng là một dòng họ bản địa “vốn dòng Lạc tướng ở đất Phong Châu” từ thời Hùng Vương” (Nghiên cứu phần thượng phả dòng họ Nguyễn, sđd, tr.26 - 30).

“Đây là một dòng họ ghi được gia phả lâu đời bậc nhất, với khởi tổ Nguyễn Bặc, sinh năm Giáp Thân (924), làm quan dưới triều nhà Đinh, được phong tước Đại Quốc công, mất năm 979, thọ 55 tuổi, đến nay gần 11 thế kỷ, gồm khoảng gần 40 đời hậu duệ.

“Đây là một dòng họ có con cháu đông đảo bậc nhất. Hiện nay, hậu duệ dòng họ Nguyễn Bặc ở rải ra khắp Bắc, Trung, Nam và cả ở nước ngoài, có thể lên đến nhiều triệu người trong hàng nghìn chi họ. Riêng ở Quảng Nam – Đà Nẵng đã phát hiện hàng trăm chi họ…”(Sđd tr.389)


___________________________________________

(1) Về việc dùng các địa danh Trung Quốc này, sách xưa gọi là “quận âm”, tức là “quận ở cõi âm”, không có thực, chỉ thích hợp  khi dùng trong các bài văn cúng. Chẳng  hạn, họ Trần gọi là ở Dĩnh Xuyên quận; họ Huỳnh ở Giang Hà quận; họ Phan: Dinh Dương quận; họ Lương: Phùng Dinh quận; họ Phạm: Cao Bình quận; họ Mai; Dữ Nam quận; họ Đinh: Nam Phước quận; họ Lê: Kinh Triệu quận; họ Hồ: An Định quận; họ Võ: Thái Nguyên quận v.v... (Theo Tam Thiên luận – Phần Phụ lục)

 

(2) Người ta thường giải thích người  Việt cổ thờ vật tổ là chim Lạc. Trên mặt trống đồng có khắc hình chim, nên cho đó là chim Lạc. Còn cụ thể chim Lạc như thế nào không ai rõ... Thực ra, người Trung Quốc đọc chữ “Lạc” là “Lúa”, tức là cây lúa.. SáchThủy Kinh có chú: “Ruộng lạc (lúa) theo nước  triều lên xuống mà làm, dân khẩn ruộng ấy mà ăn, nên mới có tên ấy”. Rõ ràng tên ấy là “lúa”. Lạc là lúa.

II. NGUỒN GỐC TỘC NGUYỄN VĂN Ở GIAO THỦY (ĐẠI HÒA - ĐẠI LỘC - QUẢNG NAM):

Theo bản gia phả cũ, (được phụng tu vào năm “Hoàng triều Duy Tân lục niên Nhâm Tý trọng đông kiết nhật”, tức ngày lành tiết trọng đông năm Nhâm Tý, Duy Tân thứ 6, nhằm năm 1912 – chú thích của người viết), thì “Thái tổ triệu cơ tiền hiền khai khẩn” của tộc Nguyễn Văn ở Giao Thủy (xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) có tên là NGUYỄN VĂN THÔNG, vợ là TRẦN THỊ LƯƠNG.

Kể từ vị Tiền hiền khai khẩn lập làng đến nay đã trải qua 14 đời. (Cần nói rõ là cho đến thời điểm hiện nay – 2009 –  có một người ở Phái Nhì, Chi 4, Nhánh 1, là Nguyễn Văn Tâm, đời thứ 13, đã có 3 người con, tức đời thứ 14, mà cháu đầu là Nguyễn Thị Mỹ Tâm, sinh năm Kỷ Tỵ, 1989, tính ra đã được 20 tuổi).

Như vậy, nếu tính một thế hệ là 25 năm, thì qua 13 đời là 325 năm, cộng với 20 năm của cháu lớn tuổi nhất đời thứ 14, tổng cộng là 345 năm, kể từ Ngài Tiền hiền đến nay. Do gia phả cũ không ghi rõ Tiền hiền của tộc Nguyễn Văn vào khai canh lập làng ở Giao Thủy vào năm nào, nên chúng ta có thể theo cách tính như trên để dự đoán: Từ thời điểm hiện nay (năm 2009) tính ngược lại về trước 325 năm (trừ 20 năm là ước tính khi Tiền Hiền đến Giao Thủy đã được 20 tuổi), thì Tiền hiền của tộc Nguyễn Văn chúng ta đến khai khẩn, lập làng tại vùng đất bên bờ sông Thu Bồn này vào khoảng cuối thế kỷ XVII .

Nhưng cụ thể là năm nào, khi Tiền hiền tộc Nguyễn Văn đặt chân đến mảnh đất Giao Thủy này?

Cùng với câu hỏi trên, có thêm một vấn đề nữa được đặt ra. Đó là, theo tương truyền trong dòng tộc Nguyễn Văn ở Giao Thủy, thì các bậc Tiền hiền, Hậu hiền là người ở miền Bắc di dân vào lập nghiệp tại đây. Điều đó thì lịch sử đã chứng minh quá rõ rồi. Nhưng để có thể lý giải được những câu hỏi về nguồn cội này, có một sự kiện lịch sử chúng ta không thể bỏ qua, đó là: Từ sau khi Đào Duy Từ giúp Chúa Nguyễn xây dựng lũy Trường Dục và lũy Thầy, từ núi Đâu Mâu đến sông Nhật Lệ, tận bờ biển tỉnh Quảng Bình, dưới thời Chúa Sãi, Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635); nhất là từ khi sông Gianh (Linh Giang) được lấy làm ranh giới phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, thì sự đi lại của nhân dân hai miền đã  bị cấm ngặt.

Còn sau khi hai chiến lũy Trường Dục và Lũy Thầy đã được xây dựng thì chỉ có những tù binh, vốn là binh lính của Chúa Trịnh bị Chúa Nguyễn bắt về, mới là những người dân phía Bắc được phiên về các địa phương ở Đàng Trong để khai hoang, canh tác, theo lệnh của các Chúa Nguyễn.

Như vậy, nếu tính theo số đời của tộc Nguyễn Văn Giao Thủy hiện nay, Tiền hiền khai khẩn của chúng ta nhất định phải di cư vào Nam từ trước khi lũy Trường Dục và Lũy Thầy được xây dựng. Nhưng cụ thể là năm nào?

Để trả lời được câu hỏi nêu trên, chúng ta cần quay về với những sử liệu, mà trước hết không thể không tìm hiểu công cuộc mở cõi về phương Nam của tiền nhân chúng ta.

Sách Đại Nam thực lục tiền biên ghi: Đầu năm Chánh Trị nguyên niên (1558), Nguyễn Hoàng, con trai thứ hai của Nguyễn Kim, được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa.

Về chuyện ra đi lánh nạn của Nguyễn Hoàng, nhằm thoát khỏi sự ám hại của anh rễ là Trịnh Kiểm – như người anh trai là Nguyễn Uông đã từng bị sát hại – đã là một kế sách mà Nguyễn Hoàng được cậu ruột, người đã nhận lời ủy thác của Nguyễn Kim nhận nuôi dạy ông, là Thái phó Nguyễn Ủ Dĩ (có sách viết là Kỷ) mách bảo, và cũng đã được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ đường bằng tám chữ: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).

Đầu năm 1558, bất chấp thời tiết giá rét, Nguyễn Hoàng dẫn con em và những người thân tín giong buồm đi ngay, từ cửa bể Nam Định (lúc bấy giờ còn gọi là trấn Sơn Nam). Sở dĩ Nguyễn Hoàng chọn đi đường thủy, vì sợ đi đường bộ dài ngày, dễ bị Trịnh Kiểm thay đổi ý kiến, cho quân đuổi theo bắt lại. Cho nên, tuy trên danh nghĩa là được vua Lê cho đi trấn thủ Thuận Hóa, mà thực ra đấy là cuộc trốn chạy khỏi đất Bắc. Trong trường hợp này, không thể chậm trễ, chuyến đi lại càng phải gọn nhẹ, lặng lẽ, chính vì thế chắc chắn là Nguyễn Hoàng không thể mang theo nhiều người, nhất là mang theo dân chúng. Đây là một điểm quan trọng, không thể không ghi nhận, vì phải đến chuyến rời đất Bắc lần thứ hai, Nguyễn Hoàng mới công khai chiêu mộ dân ở hai huyện Hải Hậu, Giao Thủy (Nam Định) để mang theo. Có một số sách biên soạn về sau không nói rõ điều này, dễ gây nên sự ngộ nhận là Nguyễn Hoàng chiêu mộ dân chúng để mang theo ngay ở lần đầu tiên rời đất Bắc này.

Vài ngày sau, Nguyễn Hoàng cập thuyền vào xứ Sa Khư (bãi cát Cồn Cỏ) ở làng Ái Tử, thuộc huyện Vũ Xương (còn có tên là Đăng Xương, nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), và chọn nơi nầy làm Dinh, rồi sau đó bắt đầu vạch đường lối cai trị.

Đến năm Canh Ngọ (1570), Nguyễn Hoàng được vua Lê phong làm Tổng trấn tướng quân, kiêm nhiệm hai xứ Thuận – Quảng.

Từ đó, Chúa Tiên, như cách gọi xưng tụng của nhân dân, ngoài việc tổ chức lại quân đội, còn thi hành chính sách khai hoang phục hóa, đưa dân đi lập những thôn ấp mới, cung cấp lương thực, thực phẩm cho họ trong năm đầu; đồng thời, cho miễn thuế trong một thời gian. Nhờ vậy, diện tích canh tác tăng nhanh, lúa gạo dồi dào. Chúa Tiên cũng còn khuyến khích việc buôn bán, trao đổi vật phẩm giữa các vùng; nhờ thế mà một số nơi đã trở nên sung túc hơn trước.

Theo Đại Nam thực lục tiền biên, ở Đàng Ngoài, sau khi Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên thay. Trịnh Tùng tiến quân ra chiếm lại Thăng Long, đuổi quân họ Mạc lên tận Cao Bằng, đưa vua Lê trở về kinh đô cũ (tức Thăng Long) vào năm 1592.

Giữ đúng nghi lễ, trong dịp vua Lê trở về Thăng Long này, Nguyễn Hoàng đem quân ra Bắc chúc mừng, được vua Lê phong làm Trung quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc Chương phủ sự, Tái Úy Đoan Quận công. Trong suốt tám năm sống trên đất Bắc sau đó, tuy được trọng vọng, nhưng Chúa Tiên vẫn nơm nớp lo sợ. Trịnh Tùng, tuy là cháu gọi ông bằng cậu, nhưng lại không muốn “thả hồ về rừng”, nên lần lữa tìm cách giữ ông ở lại kinh đô, một hình thức giam lỏng ông ở Thăng Long.

Năm Canh Tý (1600), nhân có bọn Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê khởi loạn ở Đàng Trong, ông tâu xin vua Lê và Trịnh Tùng cho ông đem quân vào phủ dụ. Nghĩ rằng Nguyễn Hoàng khó mà làm phản được, hơn nữa với bọn phản loạn ở Đàng Trong, có lẽ ngoài Nguyễn Hoàng cũng không ai trấn áp được, nên Trịnh Tùng thuận cho ông đi.

Lần này ra đi là quyết không trở về nữa, nên Nguyễn Hoàng huy động toàn bộ binh tướng, thuộc hạ dưới quyền, kể cả những người dân ở hai huyện Hải Hậu và Giao Thủy thuộc Nam Định cũng đồng lòng đem vợ con lớn bé cùng đi theo. Cũng như lần trước, nhằm nhanh chóng rời khỏi đất Bắc, Nguyễn Hoàng không ngại vượt sóng cướp gió, chọn đi theo đường biển, khởi hành từ đất Nam Định.

Chính vì đã đến lúc phải chuẩn bị cho công việc hưng khởi nghiệp lớn mà Chúa Tiên đã chiêu mộ nhiều nông dân mang theo, và sau đó chọn trấn Quảng Nam để đặt Dinh trấn. Một khi đã vượt qua Hải Vân quan (1603), ngắm xem địa hình địa vật, cảnh trí núi sông, với cặp mắt của một người khá sành về phong thủy, với cái nhìn của một vị Tổng trấn tướng quân nặng mang hoài bão kiến tạo cơ nghiệp vương bá lâu dài, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng hẳn đã phải nhận rõ được tầm quan trọng và những ưu thế của mảnh đất Quảng Nam về mặt quân sự, hành chánh cũng như kinh tế.

Ngoài nhân dân ở Nam Định theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam như sách Đại Nam thực lục tiền biênđã ghi, trong cuốn Quảng Nam qua các thời đại (Cổ học Tùng thư xuất bản năm 1974) cũng có nói rõ: “Khi Nguyễn Hoàng vào Nam, tuy là tìm đường lánh nạn, tạo thế dung thân, nhưng vốn từng được người đồng hương quý mến vì đức độ tài năng của ông và danh vọng lớn lao của gia đình ông, nên trong giới hiền tài , lắm người dù đã có quyền trọng tước cao, vẫn tình nguyện theo ông. Rất đông quan, quân nghĩa dõng hai trấn Thanh Hóa, Nghệ An cũng mang cả gia đình vào Nam …

Sử văn từng ghi chép rằng, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng có công “chinh phục hoang vu, ác địa, đuổi hùm voi để giành chỗ ở”. Quả có đúng như vậy. Nhưng điểm quan trọng không thể quên được là “phía sau hình ảnh hào hùng, tráng khái của vị Tổng trấn tướng quân họ Nguyễn còn có hình ảnh của hàng vạn, hàng triệu dân chúng, kế tiếp nhau, hết lớp này đến lớp khác, đuổi hùm voi, phá bờ bụi, rạch núi, nới sông, chinh phục hoang vu, kiến tạo làng mạc, khắc phục sức ương ngạnh của đất đai, rừng rú để mở con đường sống và cống hiến nguồn tư dưỡng bất tuyệt, bảo đảm cho thế trường tồn, bành trướng của dân tộc, giống nòi” (Sđd, trang 72, 75).

Trong gia phả tộc Nguyễn Văn ở Giao Thủy còn lưu lại, tuy các đời trước không thấy ghi năm sinh của các bậc tổ tiên chúng ta, nhưng nếu căn cứ vào năm sinh của vị Bát thế Tổ khảo, Phái Nhì, là Nguyễn Văn Trực (trước có tên là Lại), có ghi rõ ngày sinh là 15 tháng 11 năm Đinh Dậu (tra theo lịch vạn niên, năm Đinh Dậu tức là năm 1837, triều Minh Mạng thứ 18, năm có khoa thi Hương tại trường Thừa Thiên). Nếu tính theo thế hệ, thì từ đời thứ 8 tính ngược về trước là cách 175 năm. Như vậy, năm 1837 trừ cho 175 năm thành ra năm 1662, tức là cách 62 năm sau khi Nguyễn Hoàng lần thứ hai rời đất Bắc (năm Canh Tý 1600) có chiêu mộ dân chúng đi theo. Nhưng năm 1662 là lúc các chiếu lũy và sông Gianh đã hoàn toàn ngăn cách Đàng Ngoài – Đàng Trong thì làm sao Tiền hiền của chúng ta di cư vào Nam được!

Như vậy, có thể nói rằng: Ông, cha của vị Tiền hiền dòng tộc Nguyễn Văn làng Giao Thủy, là những người có thể đã theo chân Nguyễn Hoàng vào khai khẩn lập nghiệp ở Đàng Trong năm Canh Tý (1600), nhưng đầu tiên hẳn phải cư trú ở một nơi khác. Rồi sau này đến khoảng từ năm 1680 đến 1690 vị Tiền hiền của dòng tộc Nguyễn Văn làng Giao Thủy có tên Nguyễn Văn Thông, cùng với vợ là Trần Thị Lương, mới đến khai canh, lập làng ở mảnh đất bên bờ sông Thu Bồn, lúc ấy còn có tên là Giao Xuyên, sau này đổi tên thành Giao Thủy (do hai nhánh sông Thu Bồn và Vu Gia giao nhau).

Điều đó thiết tưởng rất hợp lý vì nền văn minh của các dân tộc trên thế giới đều được hình thành bên các dòng sông lớn, bắt đầu từ hạ lưu đi dần lên thượng nguồn. Nên có lẽ Tiền hiền tộc Nguyễn Văn chúng ta  cũng vậy(1).

____________________________________________________

(1) Theo ông Nguyễn Minh Cửu, người Bảo An (Điện Bàn) trong gia phả tộc của ông có ghi, có một chi họ Nguyễn tách ra, lên lập nghiệp ở vùng trên, dọc theo bờ Thu Bồn.

III. ĐỊA LÝ VÀ SINH HOẠT VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA LÀNG GIAO THỦY (ĐẠI HÒA – ĐẠI LỘC– QUẢNG NAM):

Cuộc phân tranh Nam – Bắc, Chúa Trịnh – Chúa Nguyễn đã gây nên tình trạng chiến tranh với cảnh nồi da xáo thịt, khiến cho nhân dân hai miền đã phải chịu biết bao tổn hại đau thương.

Ý thức được việc đi tìm đất sống là điều kiện bức thiết, nên tổ tiên chúng ta đã nghe theo lời kêu gọi của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, mạnh dạn rời bỏ quê xưa, dắt díu nhau vượt biển vào Nam mưu sinh lập làng.

Theo Ô Châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc năm 1553, thì vào thời bấy giờ huyện Điện Bàn (bao gồm đất Đại Lộc ngày nay, vì thuở đó huyện Đại Lộc chưa ra đời) gồm có 66 xã; trong đó có một số tên xã về sau này thuộc Đại Lộc như: Phiếm Ái (nay thuộc xã Đại Nghĩa), Gia Cốc (nay thuộc xã Đại Minh), Quảng Huế (nay thuộc xã Đại Hòa)... chưa thấy có tên Giao Thủy (Ô châu cận lục,  Quyển 3, Môn Bản đồ, Nxb Thuận Hóa, 2001, tr. 65 – 67)

Thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập dinh Quảng Nam thì phủ Điện Bàn quản lãnh 4 huyện và 1 châu (4 huyện là Tân Phúc, An Nông, Phúc Châu, Hòa Vinh, và 1 châu là Diên Khánh). Như vậy, vào năm 1611, huyện Hòa Vang đã hình thành trong phủ Điện Bàn. Huyện An Nông cũng ra đời vào thời kỳ này, gồm 2 tổng là An Sơn và Phiếm Ái.

Tổng Phiếm Ái gồm 14 xã, 4 phường , 5 thôn và 1 man, theo Lê Quý Đôn ghi lại trong Phủ biên tạp lụcvào năm 1775, như sau: Phiếm Ái, Giáo Ái, Thạch Bộ, Quảng Đại, Ái Nghĩa Đông, Ái Nghĩa Nam, Ái Nghĩa Trung, Ái Nghĩa Tây, Đại Thành, An Phú, Đông Phúc, Bàng Thạch, Giáo Phường, Trường Sinh, Phú Hương, Giáo Mỹ, Liễu Cốc, Phú Thuận Tây, Ái Mỹ Bình An, Mỹ Lộc Bình An, Mỹ Lộc, Phú Thuận Đông, Ô Kha, Bào Man, Đại Lợi.

                Dưới thời Gia Long, căn cứ vào các sổ địa bộ của dinh Quảng Nam lập vào năm 1814 – 1815, thì dinh chia thành 2 phủ: Điện Bàn và Thăng Hoa. Phủ Điện Bàn gồm huyện Hòa Vang và châu Diên Khánh. Huyện Hòa Vang lúc ấy bao gồm cả đất Đại Lộc ngày nay.

Còn theo Đồng Khánh địa dư chí, (tỉnh Quảng Nam), ở trang 1452 có ghi rõ Tổng Mỹ Hòa Trung có 28 thôn, châu, phường; trong đó số 26 là thôn Giao Thủy.

Đến đời Thành Thái, vào tháng Đinh Sửu, tức tháng Chạp, năm Kỷ Hợi, nhằm tháng 1 năm 1900 (Thành Thái thứ 11), nhà vua đã ra chỉ dụ tách một vùng đất phía Tây của huyện Hòa Vang để thành lập huyện Đại Lộc (bao gồm cả các huyện Hiên và Giằng ngày nay). Như vậy, đến nay huyện Đại Lộc, về mặt hành chánh, đã ra đời đúng 106 năm.

Cùng với sự ra đời (về mặt hành chánh) của huyện Đại Lộc, cơ cấu các đơn vị hành chánh ở vùng đất này cũng có sự thay đổi. Huyện Đại Lộc lúc bấy giờ có 6 tổng, 103 xã, phường , châu, thôn. Sáu tổng là: tổng Đại An (34 xã, châu, thôn), tổng Đức Thượng (13 xã, thôn), tổng Hòa Đạo (9 xã), tổng Đức Hạ (15 xã, thôn), tổng Phú Khê (7 xã, phường, thôn) và tổng Mỹ Hòa, gồm 25 xã, châu, thôn; thôn Giao Thủy nằm trong tổng Mỹ Hòa. (Theo tài liệu của Bulletin des Amis du Vieux Hue (Tạp chí của những người bạn cố đô Huế) , xuất bản năm 1919). Còn tên xã Đại Hòa, thì mãi đến tháng 3 năm 1948, sau khi đã thành lập huyện Giằng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới chia Đại Lộc lại thành 11 xã; Giao Thủy nằm trong xã Đại Hòa(]).

Làng Giao Thủy đã được Tiền hiền của chúng ta đặt tên từ rất sớm, mà trong các tài liệu, địa bạ mãi đến thời Đồng Khánh mới thấy có ghi? Việc này cũng có nguồn gốc lịch sử của nó. Dưới thời Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648), Chúa có chủ trương phân phối các lưu dân (nhất là các tù binh vốn là binh lính ở miền Bắc của Chúa Trịnh) từng nhóm, cứ 50 người khai khẩn một vùng đất thì thành một Ấp, cấp cho lương ăn 6 tháng, lại cấp trâu và các nông cụ như cày, bừa, cuốc … và cho phép được khai thác các món lợi ở núi, ở sông, đầm nơi sinh sống. Chính nhờ kế hoạch này mà, kể từ thời các Chúa Nguyễn, mới có quan cảnh trù mật, làng mạc nối liền nhau từ các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa vào đến Phú Yên (Theo tài liệu của Tôn Thất Hàn: Généalogie des Nguyễn avant Gia Long, và của GS Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, trang 387).

Như vậy, có thể hiểu là, tuy tên Giao Thủy(2) đã có từ rất sớm, nhưng vì chưa đủ số dân đinh, đất khai phá chưa đủ rộng, nên Giao Thủy chưa thể trở thành một đơn vị hành chánh cơ sở. Mà chưa thành đơn vị hành chánh thì không thể có tên trong địa bạ. Điều này rất rõ ràng, căn cứ theo các sách sử cũ đã nêu, chúng ta đều thấy rõ. Ở một thôn nhỏ như thôn Giao Thủy, chắc chắn ông cha chúng ta chỉ là những nông dân hiền lành, cần cù chỉ biết chăm lo việc nông tang.

Làng Giao Thủy từ xa xưa phía Nam cận sông lớn Thu Bồn, phía Bắc giáp Thạch Bộ (châu), phía Tây giáp xã Hóa Đông, phía Đông giáp làng Thượng Phước.

Làng Giao Thủy vốn là một vùng đất bồi ven sông, nằm ở bờ Bắc


____________________________________________

(1)Cũng cần nói rõ là, triều Nguyễn lập ra huyện Đại Lộc vào tháng 1 năm 1900, trong Dụ thành lập (viết bằng chữ Hán) thì Đại Lộc có nghĩa là Chân núi lớn. Còn Đại Hòa: Chữ Hòa, trong Hán tự có nghĩa là Hợp lại, lẫn lộn, đồng đều, không chống chỏi lẫn nhau. Trong Bạch thoại, Hòa, còn có nghĩa là Và, Với. Thật không hẹn mà Đông – Tây gặp nhau. Triết học phương Tây quan niệm rằng, con người sống là sống cùng, sống với. Không ai có thể sống cô độc, vì đó chỉ là mầm mống, là bước khởi đầu cho sự băng hoại, diệt vong. Chữ Hòa còn được giải nghĩa rất cụ thể: Với món ăn, Hòa là trộn lẫn các vị vào cho ngon. Với âm nhạc, Hòa là trộn lẫn các thanh âm cho êm tai. Và quý nhất là, Hòa còn để chỉ cho hạt lúa, hạt thóc, cây lúa (Đại Lộc sáng ánh đèn, Tần Hoài Dạ Vũ, Nxb Đà Nẵng, 2000).

(2)Có ý kiến cho rằng Tổ tiên ta xuất xứ từ Huyện Giao Thủy – Nam Định nên tên Giao Thủy là được đặt để nhớ về quê cha đất tổ.

Làng Giao Thủy vốn là một vùng đất bồi ven sông, nằm ở bờ Bắc sông Thu Bồn, nơi gặp nhau của hai dòng sông lớn, Thu Bồn và Vu Gia.

Sông Thu Bồn phát nguyên từ khối núi Ngọc Lĩnh cao 2.598 m (Nam Quảng Nam – Bắc Kom Tum), phần thượng lưu được gọi là Dak Di. Sông chảy ngược ra phía Bắc qua các huyện trung du của tỉnh Quảng Nam như Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức. Khi qua đây sông nhận thêm nhiều lưu lượng nước và phù sa  từ các sông Trâm, sông Tiên, sông Tranh, sông Ngang (Khang) đổ vào. Vào địa phận Quế Sơn, Duy Xuyên  mới bắt đầu được gọi là sông Thu Bồn. Ở Quế Sơn, sông đổi theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Khi đến ranh giới giữa Duy Xuyên và Đại Lộc sông Thu Bồn hợp lưu cùng sông Vu Gia.

Sông Vu Gia (có nơi gọi là Ô Gia) ở phía Bắc tỉnh Quảng Nam. Sông bắt nguồn từ vùng núi ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Nam và ở phía Bắc của tỉnh Kon Tum. Phần thượng nguồn ở Phước Sơn được gọi là Dak Mi, sông chảy theo hướng Nam lên Bắc. Khi qua địa bàn phía Đông huyện Nam Giang, sông được gọi là sông Cái. Tại đây, nó nhận một chi lưu lớn ở phía Tây (tả ngạn), đó là sông Giằng. Bắt đầu khi chảy sang huyện Đại Lộc, sông được gọi là Vu Gia và có dòng chảy theo hướng Đông -Tây. Sông Vu Gia chảy đến địa phận xã Đại Hòa ở phía Tây Đại Lộc thì tách ra làm hai dòng, một là sông Yên chảy lên phía Bắc hội lưu với sông Cầu Đỏ, một đi về phía Nam hội lưu với sông Thu Bồn.

Vùng đất nơi hợp lưu của hai sông Thu Bồn và Vu Gia được đặt tên là Giao Thủy, làng quê thân yêu của Tộc Nguyễn Văn. Hai con sông lớn hợp thành một dòng ngay tại Giao Thủy, rồi lại chia làm hai nhánh bao bọc Gò Nổi, hướng Bắc vẫn là hướng chính với tên Thu Bồn (đoạn qua Câu Lâu ngày xưa còn gọi là sông Chợ Củi), hướng Nam, nhánh nhỏ hơn là sông Bà Rén. Gần đến biển, sông Thu Bồn và sông Bà Rén lại hợp nhau và hòa cùng dòng sông Trường Giang chảy qua phố cổ Hội An rồi đổ ra Cửa Đại.

Làng Giao Thủy, theo truyền thuyết còn có tên là Gò Rì, chắc hẳn tên này sở dĩ ra đời là vì vùng đất bồi ven sông Thu Bồn này, vào thời ấy, chỉ có cây Rì là loại thực vật chủ yếu.

Đất Gò Rì còn được gọi là Trung đồng xứ trong các bản văn tế Xuân – Thu của tổ tiên ta. Tương truyền rằng có một câu được nhắc lại từ các đời trước, chỉ rõ nguồn gốc của họ tộc: “Bắc địa tráng tùng vương chi vĩ tích, du cư tương nhi Giao Xuyên kiến tịch, Nam thiên lưu lập xã chi phương danh”(1).

______________________________________

(1) Câu này dịch nghĩa như sau: Ở đất Bắc, người trai trẻ (tráng) đi theo (tùng) vua (chỉ Nguyễn Hoàng) mà làm điều lớn lao (vĩ tích, chỉ sự ra đi, vào Nam lập nghiệp, vì ngày xưa từ bỏ mảnh đất tiên tổ là một điều lớn lao, hệ trọng). Trong chuyến đi tìm đất sống (du cư), bèn đến tại Giao Xuyên mà khai khẩn, xây dựng cơ ngơi (kiến tịch).. Nơi trời Nam, trong việc lập làng xã đã lưu lại tiếng thơm.

Vào thời Pháp thuộc, do nhu cầu của số lượng tơ ở Pháp lên đến 4.000 tấn/ năm, nên thực dân Pháp ở Việt Nam nhanh chóng “khuyến khích”  sản xuất. Năm 1894, toàn quyền Đông Dương là Delanesan ra nghị định lấy ngân sách Đông Dương cho Dadre và Depicé lập lò nghiên cứu. Trong khoảng 15 năm (1908 – 1923), số tiền thực dân Pháp đầu tư cho nghề tơ tằm đã lên đến 720.000 Francs. Ở Quảng Nam, thực dân Pháp lo phát triển nghề tơ tằm, mà “Tiệm ươm Giao Thủy“, như cách gọi nôm na của người dân xứ Quảng, ngay từ năm 1903 đã có tới 100 chảo ươm, với hàng trăm công nhân. Cũng cần nói rõ là ,”Tiệm ươm Giao Thủy” do một doanh nhân người Pháp tên là Délignon,  có xí nghiệp ươm tơ tại Phú Phong (Bình Định),đến đây mua đất, đắp đường, mở tiệm ươm tơ. Và “Tiệm ươm Giao Thủy”, vào thời ấy, đã là một nơi nổi tiếng có tơ lụa bán đi nhiều nơi, kể cả bán ra nước ngoài.

Nhờ nghề trồng dâu nuôi tằm, người dân Giao Thủy, trong đó có bà con tộc ta, ngày một khá giả. Về sự phát triển của vùng đất này vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có nhiều sử sách ghi lại, như trong “Đồng Khánh Địa Dư  Chí” có ghi nhận chợ Quảng  Huế và bến đò Giao Thủy, là những nơi thể hiện rõ việc làm  ăn phát đạt của nhân dân trong vùng. Chính vì Giao Thủy phát triển , trù phú, nên một thương nhân Hoa Kiều – lúc bấy giờ người ta quen gọi là chú Mười Sáu, đã đến mua đất ngay đầu làng Giao Thủy xây dựng một tiệm thuốc Bắc lớn với mái nhà bằng, mà người dân vẫn gọi là “Tiệm Mười Sáu”. Khi quân Pháp tái chiếm vùng này, vào năm 1947, đã lấy “Tiệm Mười Sáu” làm đồn Giao Thủy, với màu vôi sơn đỏ tươi, chói lọi bên dòng sông, cạnh bến đò Giao Thủy, chỗ đối ngạn với làng Cù Bàn của xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên.

Nghề trồng dâu nuôi tằm ở Giao Thủy suy tàn trong chiến tranh. Mãi đến sau ngày đất nước thống nhất, năm 1975 mới được phục hồi, và đạt đến mức phát triển mạnh vào năm 1985. Nhưng rồi sau đó, với sự cạnh tranh gắt gao của tơ lụa ngoại nhập, nghề này dần đi vào sự thoái trào. “Đáng buồn hơn, do là một làng ven sông Thu Bồn, địa hình là đất “tân bồi” nên qua hai trận lụt lịch sử năm 1996 và năm 1998, dòng Thu Bồn cuồng nộ đã “bứng sạch” hơn 30 hecta đất canh tác từng là “bùng dâu tú mậu, nà bắp bạt ngàn” của làng Giao Thủy xưa. Và như thế, người dân Giao Thủy bỗng dưng rơi vào tình trạng “thất thổ vong hương” ngay trên quê hương mình”(1).

Về mặt văn hoá xã hội, tương truyền rằng nhà thờ tộc Nguyễn Văn chúng ta đã được xây dựng từ đời thứ 6. Nhà thờ tộc thờ các vị tiên hiền khai cơ, quay về hướng Bắc, trong khi các miếu trong làng đều quay mặt về hướng Nam.

Vị tổ đời thứ 5 của tộc Nguyễn Văn, huý Nguyễn Văn Tỉnh, hôn phối chánh thất là Hồ Thị Hốt sinh được hai trai, vị thứ nhất là ngài Nguyễn Văn Phú, tổ Phái Nhất. Vị thứ hai là ngài Nguyễn Văn Can, tổ Phái Hai. Kế phối là Trần Thị Chiếm sinh được ngài Nguyễn Quang Chiêu, tổ phái Ba.

Từ đường Nguyễn Văn tộc xây từ đời thứ 6, với ba vị Tổ đứng đầu ba phái; gia phả cũng được lập từ thời đó.

Do chiến tranh, nhà thờ tộc Nguyễn Văn đã bị hủy hoại, gia phả, sắc thần của gia tộc cũng bị thiêu hủy, thất lạc. Mãi đến năm 1990 (Canh Ngọ), mặc dù còn khó khăn nhưng con cháu đã đóng góp tiền bạc và công sức để xây dựng lại nhà thờ tộc, song cũng chỉ mới xây dựng được Chánh, Hậu tẩm, quay mặt về hướng Nam. Đến năm 2005 (Ất Dậu), con cháu tộc Nguyễn Văn tiến hành làm Tiền đường, với chi phí gần 200 triệu đồng. Nhờ thế, nhà thờ tộc trở nên rộng rải, khang trang và thoáng mát. Đến ngày 16 tháng Ba năm Bính Tuất (2006) đã tổ chức khánh thành nhà thờ tộc và an định bài vị thỉ tổ các đời. Tộc họ cũng đã có quy định, tại Giao Thủy, cứ ba năm tổ chức đại hội Tế Xuân một lần.

Trước năm 1975, vì lý do chiến tranh tàn phá, còn về sau này là do đất làng lở mất quá nhiều diện tích xuống sông Thu Bồn, nên rất nhiều bà con tộc Nguyễn Văn chúng ta phải rời làng, đi lập nghiệp ở nhiều nơi, mà phần lớn là đến lập nghiệp, sinh sống ở Dầu Giây, Cây Gáo (Đồng Nai). Và một số nơi khác như Sài Gòn, Bình Thuận, ĐakLak, Cần Thơ, …Ngoài ra có một số bà con tộc Nguyễn Văn sang định cư ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Đức…Tưởng nhớ đến tổ tiên, nhưng việc về làng quê Giao Thủy đến nhà thờ Tộc để thắp nén hương tưởng nhớ đến ông bà không phải là chuyện dễ, nên năm 1978 bà con trong Tộc Nguyễn Văn đang sinh sống tại phía Nam đã cùng nhau góp công, góp sức xây dựng một nhà thờ Tộc tại Dầu Giây – Đồng Nai. Năm 1998 nhà thờ Tộc tại Dầu Giây đã được trùng tu. Ngày mùng 10 tháng ba hàng năm tổ chức Lễ Tế Xuân, con cháu các nơi về dự đông đủ. 

Đình làng Giao Thủy được xây dựng trước đây, mặt hướng về phía Tây, đã bị chiến tranh tàn phá. Dân làng chỉ xây tạm đình nhỏ để thờ tự sau khi nước nhà thống nhất. Năm 2005, con cháu tộc Nguyễn Văn cùng bà con trong làng tham gia đóng góp xây dựng đình làng mới, tại địa điểm văn phòng thôn Giao Thủy (nhìn ra sân bóng đá của làng). Nhưng cũng phải tới ngày 11.3.2009 mới hoàn tất và tổ chức lễ khánh thành rất long trọng.

______________________________________

(1) Lưu Hoàng Giang: Chuyện về một làng cổ ven sông Thu Bồn (Báo Công an TP. Đà Nẵng, số ra ngày 11.3.2009)

Về mặt giáo dục, mãi đến khi huyện Đại Lộc được thành lập mới có trường dạy chữ Nho được mở, gọi là huyện học, vào năm 1900. “Người dân Đại Lộc thời ấy muốn học chữ  thánh hiền thì học ở các trường tư gia (Địa chí Đại Lộc, sđd,tr.324). Bà con tộc Nguyễn Văn ở Giao Thủy, cũng như phần lớn nhân dân Đại Lộc lúc bấy giờ, không  có ai đỗ đạt. Trường tiểu học Mỹ Hòa được người Pháp thành lập năm 1915, cũng chỉ dạy tới Lớp Ba, gọi là Sơ học Yếu lược. Tộc Nguyễn Văn Giao Thủy, cho đến đời thứ 10 mới có ông Nguyễn Văn Bích (thường gọi là ông Tham Cầu), sinh năm 1900 (Canh Tý), tốt nghiệp Trường Thư ký và Cán sự chuyên môn Công chánh (Ecole des Surétarires et Agents Techniques des Travaux Publics), được cử sang làm việc ở Công chánh Hoàng gia Cambodge, tại Nam Vang, ngày ấy gọi là xứ Cao Miên. Người thứ hai là ông Nguyễn Văn Huân (thường gọi là Huẩn, ông Tú Uẩn), sinh năm 1908, học Trường Chu Văn An (Trường Bưởi, Hà Nội), làm Công chức Bưu điện tại Hà Nội.

Sang đời thứ 11, Tộc Nguyễn Văn đã có người học Đại học các ngành: Tài Chính (tại Pháp), Y khoa (tại Pháp), Luật, Văn chương, Sư phạm, Khoa học, Nông Nghiệp... Khi tốt nghiệp trở thành Giám Đốc Ngân hàng, Bác sĩ, Thanh tra thuế, Nhà văn, Nhà thơ, Nhà nghiên cứu, Nhà Giáo, Kỷ sư điện tử, Kỷ sư nông nghiệp…

Đến đời thứ 12 thì tộc Nguyễn Văn Giao Thủy đã có người đỗ Tiến sĩ, đó là Nguyễn Quốc Quân, sinh năm 1964, Tiến sĩ Viện Hàn lâm Dầu khí Adecbaizan năm 1989. Nguyễn Vĩnh Tân, sinh năm 1980, Tiến sĩ Triết học năm 2007, hiện đang làm việc tại Singapor. Còn Thạc sĩ và Cử nhân, thuộc đời thứ 12 thì đã có nhiều. Đó là nhờ đất nước không còn chiến tranh, cuộc sống ngày một phát triển.

Về binh nghiệp, đời thứ 10 có người được phong chức Quản, Đội; kể từ đời thứ 11, tộc Nguyễn Văn cũng đã có nhiều người được phong hàm cấp Tá; Úy. Phát huy truyền thống hiếu học của tộc họ, các thế hệ tiếp theo chắc chắn sẽ ngày một tiến bộ, đạt được nhiều thành quả trong học tập, sẽ chiếm được nhiều học vị cao trong xã hội.

Bên dòng sông Thu Bồn êm đềm mà mãnh liệt, làng Giao Thủy được hình thành từ bao đời nay.

Đối với chúng ta, Giao Thủy là một mảnh đất linh thiêng, nơi tổ tiên ta đã an vị, là biểu tượng của cội nguồn, là ý chí của gia tộc. Giao Thủy, mảnh đất tơ tằm một thời nổi tiếng, là làng quê thân yêu của tộc họ Nguyễn Văn, trải qua bao cơn gió biển mưa nguồn, trải qua bao hồi thịnh suy của lịch sử, vẫn tồn tại với thời gian; và chính ở đó, con cháu tộc Nguyễn Văn đã bao đời sinh ra và lớn lên trong sự bảo bọc của ông bà tổ tiên, nối tiếp nhau không ngừng vượt qua những chông gai thử thách để có thể cùng tồn tại với dân tộc, giống nòi.

Đạo làm người, ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ nguồn; nhất thiết cây phải có gốc, và có cả ngàn cành muôn lá; nước phải có nguồn, tỏa ra muôn suối, ngàn sông. “Cây có cội, nước có nguồn”, lời người xưa truyền lại cho con cháu chúng ta như một sự nhắc nhở, rằng đừng bao giờ quên lãng cội nguồn, nhất thiết phải tìm hiểu về mảnh đất, con người mà từ bao đời nay ông cha chúng ta đã dày công vun bồi, gầy dựng.

Thiên dư niên bất tử tinh thần

Nhật nguyệt sơn hà giai khí tiết

(Ngàn năm lẻ vẫn tinh thần bất tử

Khí tiết cùng rạng rỡ với non sông)

 Tưởng nhớ đến công ơn cao dày của các bậc khai sơ, tiên tổ, toàn thể con cháu tộc Nguyễn Văn cùng cảm nhận được sự chứng tri của các bậc tiền nhân, và cùng thắp nén hương lòng, đồng nguyện rằng: Dù bây giờ hay đến mai sau, dù đang sinh sống trên mảnh đất dựng nghiệp của Tiền hiền hay phải lập nghiệp phương xa; dù sống trong bất cứ cảnh ngộ nào cũng sẽ mãi mãi nhớ đến quê hương, dòng tộc, không bao giờ dám quên công ơn cao dày của Tiên Tổ, không bao giờ làm điều gì để tổn thương đến thanh danh của dòng tộc. Được như vậy, tức là phần nào đã bày tỏ lòng biết ơn, là cách báo hiếu tưởng không có gì bằng. Mong thay!

 

       BAN BIÊN SOẠN